Vnluxury

Điêu khắc: Dấu ấn bất diệt của văn minh nhân loại

Từ thuở sơ khai, khi con người dần ý thức hơn về sự tồn tại của mình giữa vũ trụ mênh mông, họ cũng bắt đầu nảy sinh nhu cầu ghi dấu thời gian, ký ức và những giá trị tinh thần. Có người kể lại bằng lời nói, có người ghi chép bằng chữ viết, nhưng cũng có những người khắc lên đá, chạm vào gỗ, đúc lên đồng, để lịch sử hóa thành hình khối, để tư tưởng hóa thành tượng đài hữu hình. Điêu khắc, theo cách đó, đã trở thành nghệ thuật không lời nhưng lại có thể vượt qua cả thời gian và ngôn ngữ, mang theo mình những câu chuyện bất diệt của nhân loại.

Điêu khắc trong các nền văn minh cổ đại: Khi hình khối trở thành thần thoại

Nếu hội họa và âm nhạc thường gắn liền với biểu đạt cá nhân thì điêu khắc từ thuở ban đầu đã gắn liền với cộng đồng và thần quyền.

1. Ai Cập cổ đại: Điêu khắc như biểu tượng của thần quyền và sự vĩnh cửu

Trong nền văn minh Ai Cập cổ đại, điêu khắc giữ vai trò thiêng liêng và bất tử hóa quyền lực. Người Ai Cập không chỉ xem điêu khắc là phương tiện thể hiện cái đẹp, mà còn là công cụ để giao tiếp với thế giới bên kia. Những bức tượng Pharaoh với tư thế nghiêm trang, ánh mắt hướng thẳng về phía trước thường được đặt trong đền thờ hoặc lăng mộ, mang ý nghĩa gìn giữ linh hồn và đảm bảo sự sống đời đời cho người đã khuất. Một trong những công trình điêu khắc tiêu biểu là Tượng Nhân sư Giza – khối đá khổng lồ có thân sư tử và đầu người, được xem là vị thần bảo hộ cho các lăng mộ. Nhiều nghiên cứu về đặc điểm hình thức và niềm tin tôn giáo cổ đại đã chỉ ra rằng, điêu khắc ở Ai Cập chú trọng đến tính ổn định và quy chuẩn hình thể (thể hiện qua tính đối xứng, cứng cáp, duy trì trật tự Ma’at), bộc lộ niềm tin mãnh liệt của người Ai Cập vào sự hồi sinh và bất tử.

dieu khac sculpture

Tượng Nhân sư Giza với chiều cao gần 20m tính từ mặt đất đến đỉnh đầu và dài hơn 72m tính từ chân trước đến đuôi được xem là một trong những công trình điêu khắc cao lớn và lâu đời nhất thế giới. Ảnh: MusikAnimal

2. Hy Lạp và La Mã cổ đại: Điêu khắc tôn vinh cộng đồng người và lý tưởng thẩm mỹ

Khác với tính tôn giáo có phần cứng nhắc của Ai Cập, điêu khắc trong nền văn minh Hy Lạp – La Mã mang đậm tinh thần nhân văn và lý tưởng hóa hình thể con người. Người Hy Lạp xem cơ thể người là biểu tượng của sự hài hòa, sức mạnh và trí tuệ. Tượng thần Apollo, Venus hay tượng Thần Chiến Thắng Samothrace là những minh chứng cho kỹ thuật chạm khắc điêu luyện kết hợp với mỹ cảm cao độ. Đặc biệt, điêu khắc không chỉ gắn với công trình tôn giáo mà còn được đưa vào không gian công cộng: quảng trường, đền đài, nhà hát… để tôn vinh những vị anh hùng, chính trị gia, triết gia nổi bật của thời đại. Đến thời La Mã, nghệ thuật điêu khắc còn mang tính tư liệu lịch sử, điển hình là Cột Traianus – một công trình phù điêu khắc vòng quanh thân cột, kể lại chi tiết các chiến dịch quân sự của Hoàng đế Trajan. Rõ ràng, vai trò của điêu khắc ở Hy Lạp – La Mã là ca ngợi con người, lý tưởng công dân và gần gũi hóa quyền lực thế tục.

sculpture

Tượng thần Zeus – Hy Lạp. Ảnh: Sưu tầm

dieu khac sculpture

Tượng Marcus Aurelius cưỡi ngựa – một trong những tượng đồng cưỡi ngựa lớn nhất và nổi tiếng nhất còn tồn tại từ thời La Mã cổ đại. Ảnh: Sưu tầm

sculpture

Cột Traianus. Ảnh: NikonZ7II

3. Đông Á: Điêu khắc truyền tải tâm linh và triết lý trị quốc

Tại Đông Á, đặc biệt là Trung Hoa, Ấn Độ và các nước chịu ảnh hưởng mạnh của tư tưởng Phật giáo như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, điêu khắc phát triển như một phương tiện thể hiện đời sống tâm linh, tín ngưỡng và triết lý nhân sinh. Điêu khắc Đông Á hướng đến sự an tĩnh, từ bi và hòa hợp với vũ trụ. Tượng Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt hay các nét chạm khắc ấn tượng trên Hang đá Long Môn (Trung Quốc), quần thể hang Ajanta (Ấn Độ) là minh chứng tiêu biểu cho tinh thần này. Các tác phẩm điêu khắc thường được đặt một cách trang trọng trong chùa, đền hoặc hang động thờ phụng để con người chiêm bái, ngắm nhìn, từ đó tìm thấy sự an lạc trong nội tâm nhiều xáo động. Hình thể trong điêu khắc Đông Á không nhất thiết phải giống thật mà quan trọng là thể hiện được thần thái, khí chất và ý niệm siêu hình.

dieu khac sculpture

Chi tiết điêu khắc trên một bức tường tại hang đá Long Môn, Hà Nam, Trung Quốc. Ảnh: Gerd Eichmann

sculpture

Hang động số 26 – Chaitya Griha hay phòng cầu nguyện của Phật giáo trong quần thể hang Ajanta, Maharashtra, Ấn Độ. Ảnh: Dey.sandip

Từ Ai Cập, Hy Lạp – La Mã đến Đông Á, nghệ thuật điêu khắc đã xuất hiện như một tấm gương, phản chiếu sống động thế giới quan, niềm tin và lý tưởng mà từng cộng đồng người theo đuổi. Dù mang hình thức tương đối khác nhau, điêu khắc ở đâu cũng luôn giữ vai trò như một thứ ngôn ngữ thị giác giàu tính biểu tượng, giúp con người thời cổ đại giao tiếp với thần linh, lưu giữ lịch sử và khẳng định bản sắc cộng đồng. Chính nhờ tính lâu bền của vật liệu và hình khối, điêu khắc đã trở thành một trong những di sản hữu hình rõ nét nhất còn tồn tại cho đến ngày nay, cho phép chúng ta không chỉ nhìn thấy hình dáng của quá khứ, mà còn cảm nhận được tư duy và tâm hồn người xưa.

Điêu khắc trong văn hóa Việt Nam: Hồn dân tộc trong từng đường nét

Trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, điêu khắc hiện diện một cách trầm mặc, lặng lẽ gìn giữ bản sắc dân tộc. Từ thời Lý, Trần đến hậu Lê, mỗi giai đoạn lịch sử đều để lại những dấu ấn điêu khắc riêng biệt, phản ánh sự phát triển của tư tưởng và thẩm mỹ qua từng thời kỳ.

Dưới triều Lý – giai đoạn mà Phật giáo giữ vai trò quốc đạo, điêu khắc phát triển rực rỡ trong không gian chùa chiền, đánh dấu đỉnh cao đầu tiên của nghệ thuật truyền thống Đại Việt. Tượng Phật nhà Lý mang dáng vẻ thanh thoát, mềm mại, thần thái an nhiên và từ bi, chẳng hạn như tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh) với gương mặt trái xoan, mắt khép hờ, môi mỉm nhẹ; áo cà sa mỏng nhẹ buông rũ thành những đường lượn uyển chuyển. Từng đường nét phản ánh tinh thần Phật giáo bao dung hòa quyện cùng thẩm mỹ Việt đương thời.

dieu khac sculpture

Bản phục chế của tượng Phật A Di Đà chùa Phật Tích, đặt tại bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Ảnh: Sưu tầm

Không chỉ ở tượng, nghệ thuật phù điêu thời Lý cũng đạt đến trình độ cao với chạm rồng, chạm phượng giàu tính biểu tượng. Rồng thời Lý được thể hiện mình uốn lượn mềm mại như dây leo, thân không vảy, đuôi lửa, đầu rồng hiền hòa với râu bay, mày thanh. Phượng mang hình dáng thanh tú, đầu đội mào, cánh xòe, đuôi xếp cong mềm. Những tác phẩm này không chỉ được dùng để trang trí cung điện, mái đình, chùa tháp mà còn biểu trưng cho sự thịnh trị, cho mối giao cảm giữa trời và đất – một triết lý trị quốc và tâm linh sâu sắc.

sculpture

Điêu khắc Rồng thời Lý. Ảnh: Sưu tầm

dieu khac sculpture

Lá đề chim phượng niên đại thời Lý, thế kỷ XI-XII. Ảnh: Sưu tầm

Sang thời Trần, điêu khắc phát triển theo hướng mạnh mẽ và gần gũi với trần thế hơn, phản ánh tinh thần sục sôi của một dân tộc đang kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Tượng Phật tiêu biểu đại diện cho thời kỳ này là tượng A Di Đà tại chùa Phổ Minh (Nam Định), có thân hình vững chắc, dáng ngồi chắc khỏe, khuôn mặt tròn đầy, ánh nhìn thẳng, mang nét cương nghị. Áo cà sa dày, nếp xếp to, đường nét khúc chiết, thể hiện sức mạnh nội tâm lẫn hình thức. Phù điêu rồng, phượng cũng có nhiều thay đổi: rồng thời Trần ngắn, cấu trúc thân mập mạp khỏe khoắn, có vảy, dáng uốn lượn nhưng không quá uyển chuyển, đầu to, mồm há rộng – biểu trưng cho khí thế hùng tráng. Phượng, tuy vẫn giữ được hình dáng thanh thoát nhưng thêm phần sắc sảo, mang khí chất vương giả bề trên. Những hình tượng này xuất hiện nhiều trong chùa, trên bia đá và thành quách – nơi tập trung quyền lực chính trị.

Quảng cáo

sculpture

Bảo vật quốc gia tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ảnh: Sưu tầm

dieu khac sculpture

Rồng thời Trần trên bức cốn chùa Thái Lạc. Ảnh: Sưu tầm

Đến thời hậu Lê, nghệ thuật điêu khắc được nghi lễ hóa, quy phạm và tả thực hơn. Những bức tượng Hộ pháp, Diêm Vương có gương mặt nghiêm nghị, ánh mắt sắc bén, trang phục dày dặn, nếp gấp rõ nét. Mọi hình khối đều được gọt giũa theo quy chuẩn hình tượng – không còn mang tính sáng tạo cá nhân hay mềm mại tâm linh như thời Lý. Trong khi đó, phù điêu rồng thời Lê dài hơn, thân uốn bốn khúc, nhiều vảy, móng vuốt sắc nhọn, râu cứng và thường trong thế “long cuốn thủy” hoặc “long tranh châu”, thể hiện ảnh hưởng của tư tưởng quyền lực chuyên chế và Nho giáo chính thống. Phượng được thể hiện đối xứng, đuôi lượn đều, mang tính trang trí lễ nghi, phù hợp với tinh thần phục hưng vương triều thời hậu chiến.

sculpture

Điêu khắc rồng trong điện Kính Thiên (được xây dựng năm 1428 đời Vua Lê Thái Tổ và hoàn thiện vào đời Vua Lê Thánh Tông). Ảnh: MekongAsean

dieu khac sculpture

Tượng thần Hộ pháp niên đại thế kỷ XVIII-XIX, thời Lê Trung Hưng (Trịnh Nguyễn phân tranh). Ảnh: Sưu tầm

Không chỉ dừng lại ở hình khối và đường nét, nghệ thuật điêu khắc truyền thống Việt Nam còn gắn chặt với tư tưởng triết học phương Đông và những nghi lễ tâm linh. Việc lựa chọn chất liệu điêu khắc như: gỗ, đồng, đá xanh…, không đơn thuần mang yếu tố kỹ thuật, mà còn phản ánh mối quan hệ giữa con người và ngũ hành. Gỗ mít – loại gỗ đạt đủ ba tiêu chí: thơm, mềm, bền – được xem là vật liệu lý tưởng để tạc tượng Phật và các vị Bồ Tát, bởi tính chất nhẹ nhàng, mang âm tính và linh khí. Tượng gỗ điêu khắc thường an vị trong chánh điện của chùa hoặc trong các điện thờ nhỏ như điện Mẫu, điện Thánh. Đôi khi, còn hiện diện tại các am, cốc, miếu ven làng.

sculpture

Chạm khắc gỗ. Ảnh: Sưu tầm

Đá với đặc tính bền chắc, chịu đựng được thời gian và thời tiết, thường được dùng để tạc tượng và bia đặt ngoài trời. Chúng thường được dựng ở sân chùa, miếu, hội quán, lối vào di tích, hành lang tháp cổ hoặc các khu lăng mộ, nơi ghi lại công đức của người dựng hoặc các sự kiện quan trọng.

dieu khac sculpture

Sư tử đá được điêu khắc theo phong cách Phước Kiến. Ảnh: Nguyễn Đình

Cuối cùng, nhờ vẻ ngoài sang trọng, trang nghiêm, trầm mặc, vật liệu đồng thường được sử dụng để tạo tác những pho tượng lớn mang tính quốc gia hoặc trong các đình, chùa lớn. Tượng Hộ Pháp, Ông Thiện – Ông Ác, Đức Thánh Trần, những bức tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn hoặc tượng các vị tổ sư… đều thường được đúc bằng đồng, đặt trang trọng ở vị trí cao trong tiền đường hoặc hậu cung. Ngoài ra, chuông đồng, khánh đồng, lư hương – những yếu tố không thể thiếu trong tổng thể không gian thờ tự cũng thường được điêu khắc bằng đồng, góp phần tạo nên vẻ uy nghiêm bền vững cho kiến trúc Việt cổ.

sculpture

Chuông Ngọ Môn (độc bản) được đúc vào năm Minh Mạng thứ ba (1822) là một trong những chiếc chuông có kích thước và trọng lượng lớn nhất trong thời Nguyễn. Ảnh: báo Lao Động

Người xưa không coi tượng điêu khắc là vật vô tri, mà tin rằng tượng là thân xác vật lý của thần linh, cần được “thổi hồn” để thực sự trở thành một thực thể linh thiêng. Do đó, sau khi hoàn thiện, tượng thường phải trải qua các nghi lễ quan trọng như lễ “khai quang điểm nhãn”. Các sư thầy hoặc pháp sư sẽ dùng bút đỏ vẽ mắt tượng, chính thức “mở mắt” cho tượng nhìn đời. Tiếp đó là lễ “an vị” – rước tượng vào nơi thờ cúng, cùng nghi thức cúng bái để mời thần nhập vào. Thậm chí, trước khi tạc tượng, nghệ nhân còn phải ăn chay, tắm rửa sạch sẽ, giữ tâm thanh tịnh như một cách tu tập nhằm truyền tâm ý và thần khí trong sạch vào tác phẩm. Chính tinh thần đó đã khiến mỗi pho tượng, mỗi phù điêu, mỗi hình rồng hay hoa sen điêu khắc không chỉ là một tác phẩm đầy tính mỹ, mà còn là một biểu hiện của văn hóa tâm linh Việt Nam – nơi hồn dân tộc được lưu giữ trong từng đường nét tỉ mỉ.

Điêu khắc đương đại – Giao thoa giữa truyền thống và sáng tạo

Bước vào thế kỷ 21, nghệ thuật điêu khắc Việt Nam có bước chuyển mình mạnh mẽ cùng nhịp thở thời đại. Nếu như điêu khắc truyền thống gắn liền với tượng thờ, phù điêu đình chùa và chất liệu tự nhiên thì nghệ thuật điêu khắc đương đại mở rộng biên độ biểu đạt cả về tư duy lẫn vật liệu. Các nghệ sĩ không còn chỉ tái hiện hình khối có sẵn, mà chủ động thay đổi cấu trúc và vật liệu để truyền tải bản sắc dân tộc trong ngữ cảnh toàn cầu hóa.

dieu khac sculpture

Tác phẩm điêu khắc Boat (Thuyền) của Nguyễn Phương Linh được làm từ ba tấn muối ngậm nước, lấy cảm hứng từ những ngôi làng miền Bắc. Ảnh: Sưu tầm

sculpture

Tác phẩm Âm dương của điêu khắc gia Bùi Hải Sơn. Ảnh: báo Tuổi trẻ

Không dừng lại ở việc khai thác chất liệu mới như giấy, sơn mài, nhựa tái chế hay thép…, điêu khắc đương đại còn tiếp cận những không gian trưng bày mới. Từ phòng tranh, bảo tàng đến đường phố, công viên, không gian công cộng, điêu khắc trở thành một phương tiện văn hóa – xã hội đầy tính kết nối.

Dù sử dụng ngôn ngữ hình khối mới, vật liệu lạ hay đặt để trong những không gian phá cách, các nghệ sĩ đương đại Việt vẫn giữ được khát vọng ghi dấu thời đại, tìm kiếm bản sắc qua sự biến hóa không ngừng. Điêu khắc hôm nay, nhờ vậy, không lặp lại truyền thống mà kế thừa tinh thần và bề dày trong hình thức đậm chất đương đại.

Tựu trung, điêu khắc luôn là một phần không thể thiếu trong hành trình văn hóa của nhân loại. Đó không chỉ là nghệ thuật tạo hình, mà là nghệ thuật khắc ghi ký ức, là tiếng nói không lời của những thời đại đã qua, là “dấu ấn hóa đá” của những giá trị vô hình.

Thực hiện: Thùy Như


Xem thêm:

Ngũ Phụng Lâu uy nghi trên bản đồ Á Đông

Những bộ tứ trong văn hóa Việt: Hành trình xuyên lịch sử

Đồng hồ thiên văn Prague Orloj: Hành trình Trung Cổ qua thời gian

Nguồn https://www.elledecoration.vn/ Copy
Vnluxury
Vnluxury

Có thể bạn quan tâm